Ad Code

Responsive Advertisement

NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B (GBS) Ở PHỤ NỮ MANG THAI


NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B (GBS) Ở PHỤ NỮ MANG THAI

Theo thống kê ước tính có khoảng 2 - 4 trong số 10 phụ nữ có vi khuẩn liên cầu nhóm B trong âm đạo, trực tràng. Trong số đó, có khoảng 50% sẽ truyền từ mẹ sang con. Tuy nhiên, chỉ có 1 - 2% trẻ sơ sinh mắc bệnh, nhưng lại là các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như: Nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm phổi và thường xảy ra sớm, chủ yếu 12 - 24 giờ sau sinh. Điều đáng nói, ngay cả khi được điều trị tích cực thì nguy cơ tử vong hay di chứng cũng rất cao. May mắn thay, hầu hết các bệnh nhiễm trùng liên cầu nhóm B trong thai kỳ có thể được ngăn chặn nếu thai phụ được phát hiện trước khi sinh.

Liên cầu khuẩn nhóm B là gì?

Liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) là một trong nhiều loại vi khuẩn thường trú ở cơ thể người, thường được tìm thấy ở âm đạo hoặc trực tràng của người phụ nữ (20-40%). GBS không phải là bệnh lây truyền qua đường tình dục. Vi khuẩn GBS có thể tái nhiễm và tự khỏi mà không cần điều trị.

Hầu hết phụ nữ mang thai bị nhiễm GBS không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. GBS không gây nguy hiểm cho bạn, tuy nhiên nó làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu, vỡ màng ối, viêm nội mạc tử cung, nhiễm trùng vết mổ, thai chết lưu và sinh non.

Trẻ sơ sinh của bà mẹ nhiễm GBS sẽ tiếp xúc với GBS trong quá trình chuyển dạ hoặc sinh. Phần lớn những trẻ này sẽ không bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nếu mẹ bầu có nhiễm GBS, con bạn sẽ có một tỉ lệ nhỏ bị nhiễm GBS, đôi khi dẫn đến nhiễm trùng sơ sinh nặng, thậm chí tử vong. Điều trị kháng sinh dự phòng trong giai đoạn chuyển dạ sẽ giúp giảm tỉ lệ lây nhiễm GBS từ mẹ sang con. 

Ảnh hưởng của GBS (liên cầu B) tới trẻ sơ sinh?

GBS được xem là tác nhân hàng đầu gây nhiễm trùng sơ sinh như viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm màng não. Trẻ thường nhiễm GBS qua đường âm đạo của mẹ trong quá trình chuyển dạ.  

Trẻ nhiễm GBS có thể tự khỏi mà không cần điều trị, chỉ có 1-2% trẻ nhiễm GBS có thể tiến triển thành bệnh nghiêm trọng như viêm phổi, viêm màng não, nhiễm trùng máu và có thể gây tử vong. Tuy nhiên, nếu được điều trị kịp thời, hầu hết các em bé sẽ hồi phục hoàn toàn. 

Có hai loại nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở trẻ sơ sinh: nhiễm GBS khởi phát sớm và nhiễm GBS khởi phát muộn.  

Khởi phát sớm: xảy ra trong 7 ngày đầu sau sinh

2/3 trẻ sơ sinh nhiễm GBS thuộc loại nhiễm GBS khởi phát sớm. Nhiễm GBS khởi phát sớm có thể gây nhiễm trùng máu, viêm phổi và viêm màng não. 

Trong số trẻ nhiễm GBS khởi phát sớm, khoảng 5 - 10% sẽ tử vong (ngay cả với sự chăm sóc y tế tốt nhất), một số ít em bé hồi phục sau điều trị viêm màng não do GBS sẽ mang theo tổn thất về thể chất hoặc tinh thần vĩnh viễn.

Khởi phát muộn: Xảy ra ở những trẻ từ 7 - 90 ngày tuổi (Thường gặp trong vòng 1 tháng tuổi, hiếm gặp sau ba tháng tuổi).

Nhiễm GBS giai đoạn muộn thường gây viêm màng não và nhiễm trùng máu. Nhiễm GBS giai đoạn muộn ít gặp hơn nhiều so với nhiễm liên cầu nhóm B khởi phát sớm: chiếm khoảng 30%. Nhiễm GBS giai đoạn muộn có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với nhiễm GBS giai đoạn sớm (khoảng 5%). Tuy nhiên, một nửa số trẻ sống sót sau nhiễm GBS muộn sẽ gặp tổn thất về tinh thần hoặc thể chất lâu dài và 1/8 trong số đó bị viêm màng não nặng.

Hiện tại, không có cách nào để ngăn ngừa nhiễm GBS giai đoạn muộn ở trẻ sơ sinh. Một loại vaccine đang trong giai đoạn đầu phát triển, nhưng dự kiến ​​sẽ mất ít nhất 10 năm mới có thể đưa vào sử dụng.

Xét nghiệm GBS được thực hiện như thế nào?

Thai phụ sẽ được đề nghị xét nghiệm GBS ở thời điểm thai 35 tuần đến 37 tuần 6 ngày (đối với đơn thai), 32 - 34 tuần (đối với đa thai) hoặc khi thai kỳ có dấu hiệu sinh non hoặc vỡ ối non và sau khi có được sự đồng thuận của thai phụ.

Mẫu xét nghiệm được lấy ở cùng đồ bên âm đạo và trực tràng bằng 1 que tăm bông nhỏ. Kết quả thường sẽ có sau khi lấy mẫu 1 tuần, trường hợp sinh non hoặc vỡ ối non sẽ có kết quả sớm hơn. 

Các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm GBS ở trẻ sơ sinh:

  • Xét nghiệm GBS trước sinh dương tính
  • Trẻ sinh non hoặc ối vỡ non trước 37 tuần
  • Tiền căn có con bị nhiễm GBS ở lần sinh trước
  • Mẹ bầu có dấu hiệu nhiễm trùng hoặc sốt trong quá trình chuyển dạ
  • Vỡ ối sớm trên 24 giờ trước sinh. 

Các biện pháp giúp giảm nguy cơ lây nhiễm GBS cho trẻ sơ sinh:

- Điều trị kháng sinh cho những sản phụ bị nhiễm trùng tiểu do GBS.

- Kháng sinh dự phòng trong quá trình chuyển dạ cho những trường hợp sau:

  • Có xét nghiệm GBS trước sinh dương tính
  • Không có thông tin về tình trạng nhiễm GBS của sản phụ nhưng có vỡ ối hoặc chuyển dạ xảy ra trước 37 tuần thai kỳ hoặc tiền căn có con bị nhiễm trùng sơ sinh do GBS ở lần sinh trước.

Penicillin là kháng sinh thường được sử dụng nhất để phòng ngừa nhiễm GBS khởi phát sớm ở trẻ sơ sinh. Điều trị nên được bắt đầu càng sớm càng tốt khi bạn bắt đầu có chuyển dạ hoặc vỡ ối. Khi thai phụ nhiễm GBS được điều trị kháng sinh trong quá trình chuyển dạ, tỉ lệ lây truyền cho con giảm còn rất thấp (khoảng 1%).

Trẻ sơ sinh được theo dõi như thế nào?

Nếu con bạn sinh đủ tháng (sau 37 tuần) và bạn đã được tiêm kháng sinh khi chuyển dạ, ít nhất 4 giờ trước sinh, thì trẻ không cần theo dõi đặc biệt sau sinh.

Nếu em bé của bạn có yếu tố nguy cơ nhiễm GBS và bạn đã không tiêm kháng sinh ít nhất 4 giờ trước sinh thì trẻ cần được theo dõi chặt chẽ về các dấu hiệu nhiễm trùng trong ít nhất 12 giờ đầu sau sinh. Việc theo dõi bao gồm đánh giá tình trạng chung của trẻ, nhịp tim, nhiệt độ, nhịp thở, khả năng bú hoặc nuốt sữa. Tỉ lệ trẻ sơ sinh bắt đầu phát triển nhiễm trùng GBS sau 12 giờ là rất thấp.

Phần lớn trẻ sơ sinh bị nhiễm GBS có biểu hiện triệu chứng trong vòng 1 tuần đầu sau sinh (được gọi là nhiễm GBS khởi phát sớm), thường trong vòng 12–24 giờ sau sinh. Nhiễm GBS khởi phát muộn, mặc dù ít phổ biến hơn, nhưng có thể ảnh hưởng đến con bạn cho đến khi chúng được 3 tháng tuổi. Dùng kháng sinh khi chuyển dạ không ngăn ngừa được GBS khởi phát muộn. Do đó, bạn cần tiếp tục theo dõi trẻ tại nhà. Hãy thông báo với bác sĩ nếu trẻ có một hoặc nhiều biểu hiện gợi ý tình trạng nhiễm trùng như:

  • Da xanh tái
  • Thở nhanh, thở rên, thở co kéo, nhịp thở bất thường hoặc nghe thấy tiếng thở ồn ào.

  • Trẻ ngủ li bì hoặc kém đáp ứng.
  • Quấy khóc liên tục
  • Trẻ trông yếu ớt hoặc giảm trương lực cơ bất thường

  • Bú kém hoặc không nuốt được.
  • Nôn trớ bất thường.

  • Sốt hoặc hạ thân nhiệt.
  • Thay đổi màu da như da nổi bông
  • Nhịp tim nhanh hoặc chậm bất thường
  • Tụt huyết áp
  • Đường huyết thấp.

Nếu bạn nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nào trong số những dấu hiệu này hoặc cảm thấy lo lắng về tình trạng sức khỏe của trẻ, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ của trẻ đồng thời đề cập đến tình trạng nhiễm GBS trước sinh. Nếu con bạn bị nhiễm GBS, việc chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng vì nếu chậm trễ có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc thậm chí gây tử vong.

Tôi có thể nuôi con bằng sữa mẹ không?

Bà mẹ nhiễm GBS được khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ như những bà mẹ khác. Cho con bú sữa mẹ đã được chứng minh không làm tăng nguy cơ nhiễm GBS, nó mang lại nhiều lợi ích hơn cho cả bạn và con bạn.

Tham khảo:

https://www.rcog.org.uk/en/patients/patient-leaflets/group-b-streptococcus-gbs-infection-pregnancy-newborn-babies/

https://www.acog.org/womens-health/faqs/group-b-strep-and-pregnancy

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Close Menu