Nguyên văn
無題(相見時難別亦難)
相見時難別亦難,
東風無力百花殘。
春蠶到死絲方盡,
蠟炬成灰淚始幹。
曉鏡但愁雲鬢改,
夜吟應覺月光寒。
蓬萊此去無多路,
青鳥殷勤為探看。
Vô đề (Tương kiến thì nan biệt diệc nan)
Tương kiến thì nan biệt diệc nan,
Đông phong vô lực bách hoa tàn.
Xuân tàm đáo tử ty phương tận,
Lạp cự thành khôi lệ thuỷ can.
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
Dịch nghĩa
Gặp gỡ nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó
Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa tàn úa
Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ
Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt
Sớm mai soi gương, buồn cho tóc mây đã thay đổi
Ngâm thơ ban đêm chợt nhận ra ánh trăng lạnh lẽo
Đường từ đây tới Bồng Lai dù không xa
Chim xanh hãy vì ta mà ân cần thăm dò tin tức
Dịch thơ
Gần đành khó, xa dễ đâu!
Xuân đi trăm sắc đua nhau úa tàn
Thác tằm tơ mới thôi vương
Nến kia còn cháy lệ còn ứa lăn
Sáng gương sầu tóc úa nhanh
Đêm thơ buốt chợt trăng xanh hững hờ
Bồng Lai xa tắp nẻo mơ
Chim xanh giúp dọ dẫn đưa may về…
Bản dịch thơ khác
Khó thay khi hợp khi tan
Gió đông yếu ớt để tàn trăm hoa
Con tằm đến chết hết tơ
Sáp cây cháy cạn, lệ đà ráo ngay
Sáng soi mái tóc đổi thay
Đêm ngâm dưới nguyệt, mới hay lạnh lùng
Một đường lên tới non Bồng
Chim xanh đưa đón cậy lòng dò thăm.
(Trần Trọng Kim)
Gặp gỡ, chia tan thảy khó lòng
Hoa tàn khôn gượng với đông phong
Tằm xuân đến thác tơ vương mối
Ngọn nến thành tro lệ cạn dòng
Sớm ngắm gương buồn vầng tóc bạc
Đêm ngâm thơ gợi ánh trăng trong
Bồng Lai ít nẻo đường lui tới
Cậy nhờ chim xanh rẽ lối thông.
(Lê Nguyễn Lưu)
Khó gặp nhau, càng khó biệt nhau,
Gió Đông nỡ để cách hoa rầu.
Thân tằm đến thác tơ còn vướng,
Ngọn nến thành than lệ mới lau.
Đêm hứng thơ ngâm buồn nguyệt lạnh,
Ngày thương tóc úa tủi gương sầu.
Bồng Lai đường có xa chi mấy,
Thanh điểu nhờ thăm đã khẩn cầu.
(Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản)
Khó gặp nhau mà cũng khó xa,
Gió Đông đành để rụng muôn hoa.
Con tằm đến thác tơ còn vướng,
Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa.
Sáng ngắm gương, buồn thay mái tuyết,
Đêm ngâm thơ, thấy lạnh trăng ngà.
Bồng Lai tới đó không xa mấy,
Mượn cánh chim xanh dẫn hộ ta.
(Khương Hữu Dụng, Tương Như)
Khó gặp nhau rồi khó biệt nhau,
Trăm hoa gió nhẹ cũng tàn mau.
Kiếp tằm khô xác guồng tơ dứt,
Ngọn nến tàn tro cạn giọt sầu.
Gương sáng đã buồn phơ tóc mượt,
Thơ khuya càng sợ lạnh trăng thâu.
Bồng Lai nỏ biết đường thăm viếng,
May gặp chim xanh cậy dẫn đầu.
(Lam Giang)
Xa nhau khó tựa gặp nhau
Gió đông không sức hoa rầu xác xơ
Thác rồi tàm mới hết tơ
Tàn rồi nến mới cạn khô lệ sầu
Soi gương buồn tóc đổi màu
Ngâm đêm mới biết trăng thâu lạnh lùng
Có xa xôi mấy non bồng
Dò đường hỏi lối cây cùng chim xanh.
(Trần Trọng San)
Khó gặp nên rồi cũng khó xa
Gió đông hiu hắt rụng trăm hoa
Tằm xuân đến thác tơ đành hết
Sáp nến thành tro lệ mới nhoà
Sớm ngắm gương xưa sầu tóc úa
Đêm ngâm thơ cũ hận trăng ngà
Bồng Lai đến đó bao nhiêu lối
Dọ nẻo chim xanh cậy giúp ta.
(Trương Việt Linh)
Gặp đã khó, chia tan cũng khó
Trăm hoa tàn trước gió xác xơ
Tằm xuân chết, hết vương tơ
Nến thành tro bụi mới khô lệ sầu
Soi gương hận vì màu mái tóc
Trăng lạnh lùng thao thức ngâm thơ
Bồng Lai mộng ảo xa mờ
Muốn đi ắt hẳn phải nhờ chim xanh.
(Nguyễn Minh)
Bình thơ:
Bài thơ này, thông qua lời nói của một người con gái để viết lên tâm trạng khi yêu. Trong đau thương, thống khổ nhưng vẫn luôn thể hiện được tình yêu nóng bỏng, khát vọng, kiên nhẫn… danh giới tình cảm sâu đậm dai dẳng, và rất phong phú.
Hai câu đầu, viết về mối tình trắc trở không có hạnh phúc và tâm trạng trữ tình của người con gái: vì gặp phải những trở ngại lớn, đôi tình nhân đã không còn cơ hội gặp được nhau, nỗi thống khổ vì xa cách làm cho người con gái này khó có thể chịu đựng được. Chữ “别” tức “biệt” trong câu đầu không phải chỉ lời nói chia tay trong hiện tại, mà chỉ sự xa cách trong quá khứ. Hai chữ “ 难”, chữ thứ nhất chỉ cơ hội gặp nhau khó, chữ thứ hai chỉ nỗi thống khổ khó có thể chịu đựng được. Các bậc tiền bối trong thơ đã từng viết “别日何易会日难” tức “Biệt nhật hà dị hội nhật nan” hay “别易会难得” tức “Biệt dị hội nan đắc”…đều nhấn mạnh sự khó khăn trong việc gặp lại, và nỗi khổ khi phải biệt ly.
Nhưng Lý Thượng Ẩn đã tiến xa hơn một bước trong việc bộc bạch: vì “tương kiến thời nan” cho nên “biệt diệc nan”- khó có thể cắt đứt, thống khổ khó có thể chịu đựng. Nhà thơ trong cùng một câu đã sử dụng hai lần từ “nan” tức”khó”, sự xuất hiện của chữ “nan” thứ hai vì trùng lập nên tạo cho người đọc có cảm giác đột ngột, nhưng thông qua đó lại có thể thấy được đây là sự biệt ly không có ngày gặp lại. Trạng thái đau khổ triền miên này người đọc không thể cảm nhân được trong câu “biệt dị hội nan đắc” nhưng trong “tương kiến thời nan biệt diệc nan” thì lại rất rõ.
Cách dùng cảnh vật để phản ánh cảnh ngộ và tình cảm của con người dưới ngòi bút của Lý Thượng Ẩn là rất thường gặp, ta có thể cảm nhận được điều đó ngay trong bài thơ này trong việc phân tích câu thứ hai: Người con gái chữ tình này đã bị tổn thương đến mức vậy, lại đối mặt với cảnh vật vào cuối mùa xuân, tất nhiên càng làm người con gái này đau lòng và khó quên. Vào tiết cuối xuân, gió đông thổi lực không mạnh, trăm hoa tàn lụi, và hương sắc của mùa xuân cũng dần mất theo, sức người trước cảnh vật đó cũng không có cách nào cứu vãn được, lại thêm cảnh ngộ bất hạnh của bản thân và vết thương trong tâm linh, người con gái này cũng trôi theo mùa xuân và lụi tàn giống những bông hoa ngoài kia. Câu “Đông phong vô lực bách hoa tàn”, vừa miêu tả cảnh thiên nhiên, lại vừa phản ánh tâm trạng của người con gái trữ tình này, người vật giao nhau, tâm linh và tự nhiên đã kết hợp với nhau một cách tinh vi.
Bốn câu tiếp theo viết về tình cảm uẩn khúc một cách rõ nét hơn. Chữ “丝” tức “ti” trong câu “Xuân tám đáo tử ti phương tận” có cách đọc giống với chữ “思” tức “tư” nên chữ “ti” ở đây ngụ ý chỉ tương tư. Ý của toàn câu là chỉ sự tưởng nhớ của người con gái đến đối phương, giống như con tằm chỉ khi nào nhả hết tơ đến khi chết mới chịu dừng.
“Lạp cự thành khôi lệ thủy can” là một cách tự ví von bản thân, vì không được hội tụ nên đau khổ, nỗi đau này kéo dài mãi không kết thúc giống như nước mắt của cây nến chỉ đến khi nào nến cháy hết thành tro mới chịu thôi. Tưởng nhớ trong vô tận, mọi thứ trước mắt đều là vô vọng, do đó, người con gái này đã để cho nỗi đau của mình trôi theo dòng đời. Mặc dù biết là vô vọng nhưng người con gái này sống chết vẫn tưởng nhớ đến đối phương, và nguyện dành quãng đời còn lại của mình để yêu người đó.
Do đó, trong hai câu này vừa thể hiện nỗi đau và bi thương trong thất vọng, lại vừa thể hiện tình yêu nóng bỏng và lòng kiên nhẫn theo đuổi đến cùng.Theo đuổi ở đây là vô vọng, nhưng trong vô vọng vẫn quyết tâm theo đuổi, do đó theo đuổi ở đây cũng đã được Lý Thượng Ẩn nhuộm màu bi quan. Những tình cảm này hình như tuần hoàn trong vô tận, khó có thể đoán nó sẽ dừng lại ở đâu. Nhà thơ chỉ thông qua hai hình ảnh để so sánh đã diễn tả được trạng thái tâm lý phức tạp của người con gái, qua đó có thể thấy khả năng liên tưởng của nhà thơ phong phú đến mức nào.
Trong câu năm: “云鬓改” tức “vân tấn cải”, chỉ người con gái bị nỗi đau khổ giày vò nên đêm đến xoay ngang xoay dọc vẫn không ngủ được, đến mức tóc mái cũng rụng, dung mạo tiều tụy. “晓镜”tức “hiểu kính” chỉ sáng sớm dậy soi gương phát hiện tóc bị rụng nên sầu khổ, mà ở đây Lý Thợng Ẩn lại nhấn mạnh là “đản sầu”. Nếu chú ý các bạn sẽ phát hiện Lý Thượng Ẩn đã miêu tả một cách rất sinh động tâm trạng uẩn khúc của người con gái này. Bản thân vì đau khổ mà mất ngủ tiều tụy, sáng dậy vì phát hiện dung mạo tiều tụy mà đau khổ. Đau khổ trong đêm là vì tình yêu mà mình theo đuổi không thực hiện được, đến sáng hôm sau vì tiều tụy mà sầu, vì tình yêu mà hy vọng giữ được nét thanh xuân của mình. Nói tóm lại người con gái này vì tình yêu mà tiều tụy, vì đau khổ mà phiền muộn.
Đến câu thứ sáu “夜吟”tức “dạ ngâm”, người con gái từ bản thân mình đã tưởng tượng ra đối phương cũng đang đau khổ giống mình, đêm đến cũng mất ngủ và thường ngâm thơ để tưởng nhớ đến mình. Ở đây nhà thơ đã mượn hình ảnh lạnh lẽo của ánh trăng để phản ánh tâm trạng cô đơn, lạnh giá của người con trai. Và từ “应” tức “ứng” trong câu này là một điều ước đoán, lường trước đã được Lý Thượng Ẩn khéo léo đưa vào trong câu thơ để qua đó giúp người đọc hiểu rằng những tâm tư của đối phương đều là do người con gái tưởng tượng ra mà thôi.
Nhưng tại sao nhà thơ lại có ngụ ý như vậy, chẳng phải vì muốn thông qua sự chủ động trong tưởng tượng của người con gái để nói lên người con gái này đã thấu hiểu được hết những suy nghĩ, tâm tư của đối phương đó sao. Càng tưởng tượng cụ thể, nỗi nhớ càng sâu sắc, càng làm cháy lên khát vọng hội ngộ.
Vì biết hội ngộ là vô vọng nên người con gái đành phải thông qua sứ giả để thay mình đến thăm đối phương và đây cũng là nội dung của hai câu kết cục . Trong thơ thời Đường thường dùng tiên lữ để ví von với người bạn tình, Thanh Điểu là một nàng tiên, Bồng Sơn là một núi tiên trong thần thoại truyền thuyết, cho nên Lý Thượng Ẩn đã dùng Bồng Sơn tượng trưng cho nơi ở của người con trai, và dùng Thanh Điểu làm sứ giả thay cho người con gái. Lý Thượng Ẩn thông qua việc gửi gắm hy vọng vào sứ giả làm kết cục, chứ không thay đổi cảnh ngộ đau khổ “tương kiến thời nan” của người con gái, và đó là hy vọng trong tuyệt vọng, con đường phía trước vẫn là xa tít mù tắp. Bài thơ đã kết thúc tại đây, nhưng nỗi đau khổ và sự quyết tâm đeo đuổi tình yêu của người con gái đó thì vẫn tiếp tục.
Nguồn: Tổng hợp
0 Nhận xét