Ad Code

Responsive Advertisement

Đột tử khi vận động thể lực

CHẾT VÌ CHẠY

    Gần đây dân tình hoang mang vì vận động viên điền kinh đột tử khi đang chạy, cho rằng là do chạy quá sức. Đây là quan niệm sai lầm, bài viết dưới đây của bạn tui, một bs tim mạch, rất hay và chi tiết nhưng hơi hàn lâm nên các bạn ngoài ngành khó đọc. Tui điểm qua vài ý chính và thêm vài thông tin về tầm soát cho các bạn dễ hiểu.

    Đột tử khi vận động thể lực ở người trẻ cũng không hiếm gặp, nhưng không phải do CHẠY, mà do họ đã có một bệnh tim mạch tiềm ẩn từ trước, vận động thể lực chỉ là yếu tố kích phát bệnh tim, gây rối loạn nhịp và ngưng tim đột ngột. Những người này thường không có triệu chứng gì đặc biệt. Có rất nhiều nguyên nhân nhưng ba nguyên nhân hàng đầu là:

    - Bệnh cơ tim phì đại: là nguyên nhân thường gặp nhất (1/3), thường âm thầm không được phát hiện sớm.

    - Bệnh lý mạch vành

    - Hội chứng QT kéo dài

    Trong công việc hàng ngày, chúng tôi phải khám các trẻ sắp tham gia thể thao mỗi năm và chứng nhận đủ điều kiện tham gia, các trường bên Mỹ đều bắt buôc điều này. Thật sự chủ yếu là tầm soát nguy cơ đột tử. 

    Các yếu tố nguy cơ:

        - Ngất không rõ nguyên nhân, đặc biệt trong lúc tham gia hoạt động thể lực

        - Tiền sử gia đình có người mắc bệnh tim lúc trẻ, đột tử không rõ nguyên nhân dưới 50 tuổi, đột tử trong lúc chơi thể thao

        - Đau ngực hay khó thở khi hoạt động thể lực.

    Các trẻ có yếu tố nguy cơ này thường được làm điện tâm đồ, siêu âm tim và khám bs tim mạch để loại trừ nguy cơ đột tử

    Túm lại, chạy nhiều không làm chết người, tôi có người bạn chạy 60km mỗi cuối tuần để đi ăn trưa mà vẫn khoẻ re. Chỉ khi bạn có bệnh tim tiềm ẩn thì mới có nguy cơ đột tử.

    Gần đây, có những bạn là những vận động viên điền kinh nói riêng và những vận động viên thể thao nói chung quan tâm đến những trường hợp đột tử trong thể thao. XIn chia sẻ cùng mọi người bài viết tóm tắt những ý chính.

ĐỘT TỬ DO NGUYÊN NHÂN TIM MẠCH

Ở CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN TRẺ

    Hầu hết những trường hợp đột tử do nguyên nhân tim mạch ở các vận động viên trẻ (<35 tuổi) có nguyên nhân là bệnh cơ tim di truyền, nổi bật là bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp.

    Cho đến nay nhiều nghiên cứu đã chứng minh thể dục đều đặn sẽ làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch và cả những đột tử do nguyên nhân tim mạch. Các vận động viên thường được nghĩ là những chuẩn mực về sức khỏe do chế độ luyện tập cơ thể cũng như chế độ ăn uống. Tuy nhiên, có một tỉ lệ nhỏ nhưng đáng kể các vận động viên chết đột ngột. Những bi kịch như thế được dư luận quan tâm nhiều đặc biệt khi nạn nhân là các vận động viên thành tích cao. Trong năm 2007, ở Anh đã có 7 trường hợp tử vong khi thi đấu trong các cuộc thi điền kinh đã gây sự quan tâm đáng kể của giới thể thao, bác sĩ và dư luận. Hầu hết những trường hợp tử vong ở các vận động viên là do các rối loạn của hệ tim mạch. Bệnh động mạch vành là nguyên nhân đột tử phổ biến nhất ở các vận động viên lớn hơn 35 tuổi. Tuy nhiên, ở các vận động viên trẻ, hầu hết các trường hợp đột tử là do di truyền hay các rối loạn ở tim gây rối loạn nhịp thất ác tính. Chúng ta sẽ tập trung vào nhóm vận động viên này (<35 tuổi).

Tầm quan trọng của vấn đề

    Tỉ lệ mắc bệnh chính xác của đột tử ở vận động viên thì chưa được biết đến, nhưng có thể ước tính ở Hoa Kỳ từ 1/200000 đến 1/300000. Con số này có vẻ chưa phản ánh được vấn đề vì 3 lý do quan trọng. Một là, chưa có sổ bộ của quốc gia về những trường hợp đột tử trong thể thao, và dữ liệu chỉ được ghi nhận từ những trường hợp tử vong của những vận động viên thành tích cao. Hai là, hiếm khi nào các chuyên gia bệnh lí học tim mạch thực hiện những cuộc tử thiết và vì thế những trường hợp như bệnh cơ tim phì đại hay bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp không được ghi nhận. Và cuối cùng, những ca tử vong do các đường dẫn truyền phụ hoặc rối loạn các kênh điện giải bệnh lí không được phát hiện khi giải phẫu tử thi.

    Hầu hết những dữ liệu về các vận động viên đột tử được lấy từ một loạt 158 vận động viên ở Hoa Kỳ. Nghiên cứu đã chứng tỏ hầu hết tử vong xảy ra ở những nam thanh niên (tuổi trung bình là 17.1 tuổi), và nhóm vận động viên da đen chiếm ưu thế. Hầu hết những trường hợp tử vong trong khi gắng sức hay chỉ sau khi vừa gắng sức khiến người ta nghĩ rằng hoạt động mạnh mẽ của hệ thần kinh giao cảm sẽ làm phát sinh những rối loạn nhịp chết người ở những bệnh nhân đã có sẵn các rối loạn về hệ tim mạch.

Những nguyên nhân tim mạch gây đột tử ở vận động viên

    Hầu hết những trường hợp đột tử ở vận động viên là do những bệnh cơ tim di truyền, chủ yếu là bệnh cơ tim phì đại hoặc là bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp. Trong loạt vận động viên đột tử của Hoa Kỳ, bệnh cơ tim phì đại là thủ phạm của 1/3 trường hợp; tuy nhiên, dữ liệu từ vùng Veneto của Italia cho rằng nguyên nhân tử vong phổ biến nhất là bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp. Sự khác nhau về nguyên nhân có thể phản ánh phần nào việc tầm soát để loại ra những vận động viên mắc bệnh cơ tim phì đại ở Italia. Các bất thường về động mạch vành tương đối phổ biến và thường lành tính. Bất thường nguy hiểm nhất và có thể gây tử vong là bất thường của thân chung động mạch vành trái xuất phát từ xoang Valsava phải.

    Mặc dù, hầu hết người có bệnh cơ tim không thể vận động quá mức, vẫn có một tỉ lệ nhỏ có thể tham gia tranh tài ở cấp độ quốc gia. Điều này được minh họa bằng những trường hợp như Mark Vivian Foe, ngôi sao bóng đá Cameroon, người đã chơi nhiều mùa bóng ở Anh và đã chết do bệnh cơ tim phì đại trong một giải đấu quốc tế năm 2003, cũng như cái chết của một vận động viên trong cuộc đua marathon Luân Đôn, người đã từng có 19 cuộc tranh tài trước đó.

    Đột tử do nguyên nhân tim mạch cũng có thể xảy ra do các nguyên nhân mắc phải như viêm cơ tim, sử dụng nhầm thuốc hay chấn thương.

    Khoảng 2% vận động viên đột tử không xác định được nguyên nhân rõ rệt khi tử thiết. Những nghiên cứu trên những người bà con trực hệ của những nạn nhân đã chứng tỏ các nguyên nhân có thể gặp là do bệnh lí của các kênh điện giải (hội chứng QT kéo dài bẩm sinh, hội chứng Brugada) hoặc các rối loạn nhịp nhanh do đường dẫn truyền phụ.

Đánh giá tim mạch cho vận động viên

    Việc đánh giá cho vận động viên ở Anh là phần quan trọng nhất của chương trình tầm soát sức khỏe do hiệp hội quần vợt Anh, hoặc các giải vô địch bóng đá hay bóng bầu dục. Hiếm khi người ta dựa vào những triệu chứng tim mạch do các vận động viên báo hoặc tiền sử gia đình bệnh tim mà tiến hành những cuộc khảo sát. Một cách lí tưởng, các vận động viên nên được kiểm tra ở những trung tâm với các chuyên gia về các rối loạn tim mạch di truyền, đặc biệt là các bệnh cơ tim.

    Trong chẩn đoán, nghe tim chỉ có vai trò giới hạn, nhưng có thể phát hiện ra những trường hợp hẹp van động mạch chủ, và khoảng 25% trường hợp bệnh cơ tim phì đại. Điện tâm đồ có ích trong chẩn đoán các hội chứng kích thích sớm, hội chứng QT kéo dài, hội chứng Brugada. Đôi khi, trong hội chứng Brugada, hình ảnh giả blốc nhánh phải với ST chênh lên từ V1-V3 có thể thoáng qua, nhưng có thể khẳng định bằng các nghiệm pháp sử dụng các thuốc ức chế kênh Na+ (Ajmaline hay Flecainide). Những nghiệm pháp như thế chỉ được dùng cho những bệnh nhân có tiền sử gia đình. Điện tâm đồ thường không đặc hiệu trong 90% trường hợp bệnh cơ tim; tuy nhiên siêu âm tim lại là phương tiện chẩn đoán hữu hiệu nhất trên lâm sàng. Đôi khi siêu âm tim cũng có thể phát hiện những bất thường động mạch vành. Những cận lâm sàng tiếp theo như chụp động mạch vành hay cộng hưởng từ có thể làm rõ chẩn đoán. Ở những người nghi ngờ bất thường động mạch vành, những nghiệm pháp gắng sức để chứng minh thiếu máu cơ tim thường thiếu độ nhạy cảm.

    Tuy nhiên, nghiệm pháp gắng sức có lợi trong việc làm rõ những bệnh nhân nghi ngờ có hội chứng QT kéo dài bẩm sinh với điện tâm đồ bình thường và trong việc phân tầng nguy cơ bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại.

    Trong 15 năm qua, có những bước tiến quan trọng trong di truyền phân tử của các bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp, và hội chứng QT kéo dài bẩm sinh. Tuy nhiên, việc chẩn đoán bệnh tim mạch trên các vận động viên vẫn dựa chủ yếu trên việc khám lâm sàng, như việc chẩn đoán di truyền chỉ có thể thực hiện ở 60% trường hợp bệnh cơ tim phì đại và thậm chí còn ít hơn trong bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp và hội chứng QT kéo dài bẩm sinh.

Phân biệt tim của vận động viên với bệnh cơ tim phì đại

    Do sự thích nghi bình thường với việc vận động thể lực, một tỉ lệ nhỏ vận động viên nam có thể có phì đại thất trái sinh lí (LVH, 12-15mm) giống như hình thái học của bệnh cơ tim phì đại thể nhẹ. Việc phân biệt hai dạng này rất quan trọng vì chẩn đoán sai lầm có thể gây tử vong. Trong hầu hết trường hợp, sự phân biệt dựa trên tiền sử gia đình, điện tâm đồ, kích thước thất trái, chức năng tâm trương, các thông số khí trao đổi khi hoạt động thể lực. Nói chung, một tiền sử gia đình có bệnh cơ tim phì đại, thất trái không dãn, chức năng tâm trương bất thường, và giá trị tiêu thụ oxy đỉnh thấp thường hướng tới bệnh cơ tim phì đại.

Điều trị

    Việc điều trị cụ thể tùy thuộc vào chẩn đoán bệnh. Hầu hết những trường hợp đột tử khởi phát do việc gắng sức, vì thế biện pháp thực tế để ngăn ngừa những thảm họa này là khuyến cáo việc không tham gia các cuộc thi đấu thể thao gắng sức cao. Việc ngăn không cho các vận động viên thành tích cao tham gia thi đấu thì rất khó khăn, và đôi khi là không thể. Một số vận động viên chấp nhận nguy cơ đột tử để tiếp tục có mặt trên đấu trường đỉnh cao. Hướng dẫn Bethesda thật sự chỉ khuyến cáo những tiêu chuẩn không thích hợp của vận động viên, chứ không là lời khuyên không thi đấu thể thao với họ. Tuy nhiên, ở Anh, những tiêu chuẩn này không là bắt buộc.

    Nhóm ức chế thụ thể beta rất quan trọng trong việc kiểm soát các triệu chứng như là bệnh cơ tim dãn nở, dãn cung động mạch chủ trong hội chứng Marfan, và phòng ngừa ngất và đột tử trong hội chứng QT kéo dài bẩm sinh. Việc cấy máy phá rung phòng ngừa được khuyến cáo ở một số bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim thất phải loạn nhịp, hội chứng QT kéo dài bẩm sinh hay hội chứng Brugada, đó là những đối tượng nguy cơ cao bị những cơn nhanh thất nguy hiểm. Hội chứng kích thích sớm được điều trị tốt nhất bằng phương pháp đốt đường dẫn truyền phụ thủ phạm. Với những vận động viên bị viêm cơ tim, tốt nhất là phải ngưng tham gia thi đấu cho đến khi chức năng tim phục hồi hoàn toàn.

Phòng ngừa

    Việc nhận biết các rối loạn tim mạch ở một vận dộng viên có thể ngăn ngừa đột tử. Theo kinh nghiệm khảo sát sức khỏe vận động viên của chúng tôi, phần lớn (>80%) vân động viên được nhận biết có những rối loạn tim mạch nghiêm trọng thì không có triệu chứng. Chương trình tầm soát ở Italia với điện tâm đồ bắt buộc và một số xét nghiệm gắng sức cho tất cả các vận động viên đã phát hiện nhiều hơn các trường hợp bệnh cơ tim phì đại, nhưng đòi hỏi một chi phí đáng kể. Hiện tại biện pháp thực tế nhất ở Anh là nâng cao nhận thức về các tình trạng bệnh lí có thể gây ra đột tử do nguyên nhân tim mạch và đề nghị một chương trình tầm soát với những vận động viên có những triệu chứng gợi ý nhiều đến một bệnh tim mạch tiềm ẩn hoặc với những vận động viên có tiền sử gia đình bệnh tim di truyền hay trong gia đình có người chết đột ngột do nguyên nhân tim mạch.

Bảng 1: Những nguyên nhân tử vong đột ngột do tim mạch ở vận động viên trẻ

Nguyên nhân bẩm sinh/di truyền

    - Bệnh cơ tim

  • Bệnh cơ tim phì đại
  • Bệnh cơ tim gây loạn nhịp
  • Bệnh cơ tim dãn nở

    - Bệnh động mạch vành

  • Bất thường xuất phát động mạch vành
  • Xơ vữa sớm động mạch vành

    - Bất thường mô dẫn truyền tim

  • Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW)
  • Cơn nhịp nhanh buồng tống thất phải (RVOT)
  • Cơn nhịp nhanh đa dạng giao cảm

    - Bệnh van tim và bệnh động mạch chủ

  • Sa van hai lá
  • Hẹp van động mạch chủ bẩm sinh
  • Hội chứng Marfan

    - Bệnh lí kênh điện giải

  • Hội chứng QT kéo dài bẩm sinh
  • Hội chứng Brugada

Nguyên nhân mắc phải

    • Nhiễm trùng (viêm cơ tim)

    • Thuốc (cocaine, amphetamine)

    • Bệnh thâm nhiễm (sarcoid, amyloid)

    • Rối loạn điện giải (hạ K+ máu, tăng K+ máu)

    • Hạ nhiệt độ

    • Tăng nhiệt độ

    • Chấn thương

Bảng 2: Những nguyên nhân đột tử trên bệnh nhân có cấu trúc tim bình thường

    • Hội chứng QT kéo dài bẩm sinh

    • Hội chứng Brugada

    • Hội chứng Wolff-Parkinson-White

    • Cơn nhịp nhanh buồng tống thất phải (WPW)

    • Cơn nhịp nhanh đa dạng giao cảm

    • Co thắt động mạch vành

    • Chấn thương

    • Rối loạn điện giải

    • Tăng hay giảm nhiệt độ

    • Thuốc (amphetamine hay cocaine)

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Close Menu