Ad Code

Responsive Advertisement

BIẾNG ĂN Ở TRẺ EM

BIẾNG ĂN Ở TRẺ EM

1. Tiêu chuẩn của Viện Dinh dưỡng 

Chẩn đoán biếng ăn dựa vào 1 trong 3 các dấu hiệu kéo dài từ 7 - 30 ngày:

  • Từ chối ăn hoặc ngậm thức ăn lâu trong miệng, 
  • Không ăn hết 1/2 lượng thức ăn của trẻ so với lứa tuổi (theo 1 ngày),
  • Hoặc trẻ ăn được >1/2 lượng thức ăn 1 bữa chính nhưng do bị ép và thời gian ăn lâu (> 30 phút). 

2. Chẩn đoán biếng ăn dựa vào phân loại Chatoor

Chatoor đưa ra phân loại biếng ăn, gồm có 6 nhóm không bao gồm tất cả nhưng nó bao phủ hầu hết các dạng biếng ăn thường gặp. Phân loại biếng ăn của Chatoor, bao gồm:

(1). Biếng ăn do điều chỉnh trạng thái:

   Tiêu chí chẩn đoán:

  • Khó khăn ăn uống của trẻ xuất hiện trong những tháng đầu đời và kéo dài ít nhất 2 tuần.
  • Trẻ khó khăn trong việc đạt được và duy trì một trạng thái tỉnh táo, ổn định trong lúc ăn; trẻ quá buồn ngủ hoặc là quá kích động hoặc rất khó chịu khi ăn.
  • Trẻ không đạt được cân nặng phù hợp với lứa tuổi hoặc sụt cân.
  • Khó khăn ăn uống của trẻ không thể giải thích được do bệnh lý thực thể.

(2). Biếng ăn do thiếu đồng cảm giữa người cho ăn và trẻ:

 Tiêu chí chẩn đoán:

  • Dạng biếng ăn này thường quan sát thấy trong những năm đầu đời.
  • Trẻ nhũ nhi thiếu các dấu hiệu phát triển về giao tiếp thích hợp (ánh mắt, mỉm cười, nói chuyện) với người chăm sóc.
  • Trẻ nhũ nhi chậm tăng trưởng đáng kể.
  • Người chăm sóc ban đầu thường không nhận thấy hoặc phủ nhận các vấn đề về nuôi ăn và tăng trưởng của trẻ.
  • Sự thiếu tăng trưởng và thiếu các mối quan hệ không phải chỉ so rối loạn thực thể hay rối loạn phát triển toàn thân.

(3). Biếng ăn nhũ nhi:

    Tiêu chí chẩn đoán:

  • Nhũ nhi trong tuổi tập đi từ chối ăn đủ khối lượng thức ăn cần thiết ít nhất trong 1 tháng.
  • Việc từ chối thức ăn thường bắt đầu vào giai đoạn chuyển tiếp sang ăn bằng muỗng hoặc tự ăn, điển hình từ lúc 6 tháng đến 3 tuổi.
  • Trẻ hiếm khi đòi ăn, không thích thức ăn và việc ăn. Thích chơi, chạy xung quanh, thích nói chuyện hơn là ăn.
  • Trẻ chậm tăng trưởng rõ rệt (SDD cấp hay mạn tính theo tiêu chuẩn của Waterlow (1997) hoặc trọng lượng của trẻ lệch quá 2 bách phân vị trong giai đoạn 2-6 tháng tuổi). 
  • Từ chối thức ăn không khởi đầu sau một chấn thương vùng hầu họng hay ống tiêu hóa.
  • Việc từ chối thức ăn không do một bệnh lý nền khác.

(4). Ác cảm với thức ăn:

 Tiêu chí chẩn đoán:

  • Biếng ăn đặc trưng bởi từ chối một số thức ăn nhất định của trẻ do mùi, độ mịn, nhiệt độ hay khẩu vị của thức ăn trong vòng tối thiểu 1 tháng.
  • Khởi đầu của việc từ chối thức ăn diễn ra trong khi bắt đầu một thức ăn mới hay một loại thức ăn mà trẻ có ác cảm.
  • Phản ứng của trẻ đưa đến ác cảm với thức ăn xếp loại từ  nhăn mặt hoặc phun thức ăn ra ngoài đến nôn khan và nôn ói. Sau phản ứng ác cảm, trẻ từ chối luôn cả những thức ăn trẻ vẫn thường dùng và từ chối luôn các thức ăn có màu sắc, hình thức hoặc mùi vị tương tự. Hậu quả trẻ từ chối hầu hết thức ăn.
  • Trẻ miễn cưỡng ăn thức ăn mới nhưng khi đưa thức ăn trẻ thích thì trẻ ăn nhanh hơn.
  • Nếu không có thực phẩm bổ sung, trẻ sẽ có biểu hiện thiếu một hoặc nhiều chất chuyên biệt (như  đạm, vitamin, sắt, kẽm) nhưng trẻ vẫn cao lớn thậm chí còn có thể dư cân và/hoặc:

    1. Chậm phát triển cơ vận động vùng miệng và chậm diễn cảm bằng lời nói và/hoặc:
    2. Bắt đầu từ mẫu giáo, trẻ đã cho thấy sự lo lắng trong giờ ăn và tránh những kích thích nào từ xung quanh có liên quan đến việc ăn uống.

  • Việc từ chối thức ăn không sau những chấn thương vùng hầu họng.
  • Từ chối ăn một số thức ăn chuyên biệt không liên quan đến dị ứng thức ăn hay do trẻ đang bệnh.

(5). Rối loạn nuôi ăn sau chấn thương:

Tiêu chí chẩn đoán:

  • Đặc trưng của rối loạn nuôi ăn này khởi đầu bằng việc trẻ đột ngột bỏ ăn hoàn toàn.
  • Khởi phát bỏ ăn có thể ở bất kỳ tuổi nào, từ nhũ nhi đến người lớn.
  • Bỏ ăn xảy ra sau một biến cố gây chấn thương hay những tổn thương lặp đi lặp lại vùng hầu họng và đường tiêu hóa (sặc, ọe, nôn, trào ngược dạ dày-thực quản, đặt nội khí quản hay ống thông mũi-dạ dày, ép ăn) gây ra đau đớn cho trẻ.
  • Kiên quyết bỏ ăn biểu hiện theo một trong những cách sau, tùy thuộc vào cách thức trẻ ăn lúc xảy ra chấn thương, bú bình hoặc ăn thức ăn đặc:

    1. Không chịu bú bình nhưng có thể ăn bằng muỗng.
    2. Không chịu ăn thức ăn đặc nhưng có thể bú bình, uống thức uống lỏng  khác hay thức ăn nghiền.
    3. Không chịu ăn gì bằng đường miệng.

  • Gợi nhớ lại biến cố gây chấn thương làm trẻ sợ hãi, biểu hiện bằng một hoặc nhiều cách sau:

    1. Biểu lộ sự sợ hãi khi được đặt vào chỗ chuẩn bị ăn.
    2. Phản kháng dữ dội khi tiếp xúc với bình sữa hoặc thức ăn.
    3. Phản kháng không chịu nuốt thức ăn trong miệng.

  • Việc bỏ ăn đặt ra là vấn đề tức thời hay lâu dài về sức khỏe, dinh dưỡng, phát triển; đe dọa tiến trình ăn uống phù hợp tuổi của trẻ.

(6). Rối loạn nuôi ăn liên quan đến một bệnh nội khoa:

Tiêu chí chẩn đoán:

  • Rối loạn nuôi ăn được đặc trưng bởi việc không chịu ăn và ăn không đủ ít nhất 2 tuần.
  • Trẻ có thể bắt đầu không chịu ăn ở bất kỳ tuổi nào, mức độ có thể tăng giảm, tùy thuộc tình trạng bệnh nội khoa.
  • Nhũ nhi và trẻ mới biết đi bắt đầu bữa ăn dễ dàng, nhưng sau đó biểu hiện đau đớn và không chịu ăn tiếp.
  • Nhũ nhi và trẻ mới biết đi đang mắc một bệnh lý thực thể làm trẻ đau đớn (như: trào ngược dạ dày-thực quản, mắc bệnh hô hấp, tim mạch).
  • Nhũ nhi và trẻ mới biết đi chậm tăng cân, thậm chí sụt cân.
  • Điều trị bệnh nội khoa có thể cải thiện được vấn đề nuôi ăn nhưng có thể không giảm hoàn toàn.

Nhược điểm của phân loại này là không thật phù hợp với những trường hợp mới biếng ăn, chưa dẫn đến những hậu quả rõ rệt về tình trạng bệnh lý, sức khỏe. Đặc biệt trong điều kiện như Việt Nam và các nước đang phát triển, biếng ăn đơn thuần, nhất là giai đoạn đầu chưa được các phụ huynh chú ý, khi chưa có các bệnh tật kèm theo phải tới bệnh viện hoặc cơ sở y tế để khám.

Chẩn đoán biếng ăn dựa vào phân loại của Kerzner

Phân loại biếng ăn của Kerzner (2009) dựa trên phân loại của Chatoor và có thay đổi ở điểm là cho phép phân loại cả nhóm trẻ khỏe mạnh nhưng bị cha mẹ cho là kém ăn. Phân loại này gồm 4 nhóm:

(1). Nhóm kém ngon miệng (ít thèm ăn):

Bao gồm: 

  • trẻ không biếng ăn nhưng được cha/mẹ nhận định sai là biếng ăn; 
  • trẻ quá hiếu động ít quan tâm đến ăn; 
  • trẻ thờ ơ, lãnh đạm; 
  • trẻ có bệnh lý thực thể.

Trẻ không biếng ăn nhưng được người chăm sóc nhận định sai là biếng ăn: Trẻ được người chăm sóc (cha/mẹ) đánh giá là ăn ít, nhưng thực ra trẻ ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng. Trẻ thường có kích thước nhân trắc nhỏ nhưng nằm trong giới hạn bình thường theo lứa tuổi. Sự quan tâm quá mức của người chăm sóc trẻ (cha/mẹ) dẫn đến giải pháp cưỡng bức trẻ ăn và có tác động không có lợi làm trẻ sợ ăn.

Trẻ quá hiếu động ít quan tâm đến ăn: Trẻ khỏe mạnh, hiếu động, ham học hỏi nhưng ít có biểu hiện đòi ăn hoặc hứng thứ với việc ăn. Người chăm sóc trẻ trở nên lo lắng và ép trẻ ăn, hậu quả dẫn đến trẻ biếng ăn.

Trẻ thờ ơ, lãnh đạm ít quan tâm đến ăn: Trẻ giảm/mất cảm giác ngon miệng là do có vấn đề trong giao tiếp giữa trẻ và người chăm sóc, có thể có dấu hiệu của trẻ bị bỏ rơi. Trẻ có biểu hiện thờ ơ và ít giao tiếp bằng lời (cười, nói) hoặc không lời (giao tiếp ánh mắt).

Trẻ kém ngon miệng do có bệnh lý thực thể: Trẻ ăn ít hoặc từ chối ăn vì đang bị bệnh.

(2). Nhóm quá kén chọn thức ăn:

Trẻ liên tục từ chối một hoặc một số loại thức ăn cụ thể nào đó, vì do mùi, vị, độ mịn màng hay hình dạng của thức ăn. Trẻ trở nên lo lắng và sợ ăn khi bị ép ăn những thứ ăn mà trẻ ác cảm. Trẻ có các biểu hiện chống đối khi ăn như: nôn, khóc, không chịu mở miệng.

(3). Nhóm sợ thức ăn:

Trẻ biểu lộ sự sợ hãi khi biết sắp phải ăn như: khóc, nôn, không chịu mở miệng. Trẻ thường có tiền sử sợ hãi liên quan đến vấn đề khi nuôi ăn, ví dụ như nghẹn thức ăn gây ngạt thở, ăn qua ống thông.

(4). Nhóm đau quặn bụng khi ăn:

Trẻ khóc không thể dỗ được và làm gián đoạn bữa ăn. Bà mẹ có khuynh hướng cho trẻ ăn nhiều lần hơn vì nghĩ rằng trẻ khóc vì đói. Trẻ thường khỏe mạnh, trong trường hợp nặng trẻ có thể sụt cân [30],[31]. 

Phân loại biếng ăn của Kerzner bổ sung nhóm đau quặn bụng khi ăn và không có nhóm biếng ăn do điều chỉnh trạng thái khi so sánh với phân loại của Chatoor. Phân loại này thích hợp khi xác nhận các loại biếng ăn ở trẻ lớn hơn (≥4 tháng tuổi). Phân loại biếng ăn của Kerzner có ưu điểm làm nổi bật bản chất của biếng ăn trong phân chia các nhóm, đó là nhóm ít thèm ăn (bao gồm tất cả các nguyên nhân), kén chọn thức ăn (ác cảm thức ăn), nhóm sợ ăn, nhóm đau quặn bụng khi ăn.

Nhược điểm của phân loại này là không phải lúc nào cũng phân biệt được rõ ràng các nguyên nhân, các dấu hiệu rõ như trên của biếng ăn trên cộng đồng. Thường sẽ có yếu tố phối hợp nhau, đặc biệt với trẻ em 2-3 tuổi khi chúng chưa phân biệt rõ các dấu hiệu đau, hoặc sau một thời gian biếng ăn, bố mẹ ép buộc, dọa nạt, trẻ sẽ dẫn đến tổng hợp đủ các dấu hiệu trên.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Close Menu