MEN TIÊU HÓA
Sử dụng enzyme tiêu hóa
Enzyme là những chất sinh học được sản sinh trong cơ thể sống, chúng là một phần của tất cả các tế bào sống, bao gồm cả thực vật, động vật. Một tính năng nổi bật của các enzyme là không bị hao hụt khi tham gia vào phản ứng hóa học, tuy nhiên chúng hoạt động với hiệu quả tối đa ở nhiệt độ nhất định, enzyme hoàn toàn bị phá hủy ở nhiệt độ trên 60oC. Có khoảng 20.000 enzyme trong cơ thể người, trong đó 1.000 enzyme đã được xác định. Enzyme cũng tham gia kiểm soát rất nhiều các phản ứng trong cơ thể để tái tạo các mô mới và sản xuất năng lượng. Tuyến tụy chứa các enzyme khác nhau tiếp tục quá trình phân hủy protein, giúp chia tinh bột thành đường và liên kết với mật để tiêu hóa chất béo. Ruột non tiết ra các men từ thành ruột để tiêu hóa thức ăn và khi đó, thức ăn được tiêu hóa và chuyển đổi thành các chất cơ thể dễ hấp thu vào mạch máu [106],[107].
Các enzyme tiêu hóa được sản xuất và bắt đầu hoạt động từ miệng, dạ dày, tụy và ruột. Mỗi loại men tiêu hóa tham gia với những chức năng đặc hiệu và giúp cho thức ăn của người được phân giải đến những đơn vị nhỏ nhất về dinh dưỡng để hấp thu vào hệ bạch huyết và mạch máu, cung cấp các chất dinh dưỡng cho cơ thể hoạt động.
1. Amylase:
được sản xuất tại miệng, có trong nước bọt, giúp tiêu hóa một phần chất bột đường. Dưới tác dụng của amylase nước bọt, một số tinh bột sẽ được chuyển thành đường maltose và maltotriose, các dextrin giới hạn vì thế khi ăn chất bột nếu ta nhai kỹ sẽ thấy có vị ngọt [108].
2. Protease:
Protease được phân loại dựa trên các đặc điểm riêng của chúng cũng như cấu tạo trung tâm hoạt động của enzyme. Rất ít khi xảy ra phản ứng quá mẫn cảm, dị ứng với protease, để tránh các phản ứng quá mẫn, tốt nhất nên xác nhận một bệnh nhân không dị ứng với nguồn enzyme đã cho trước khi sử dụng. Liều lượng protease khuyến nghị là 197 UI [109]. Nguồn thu nhận: Có 3 nguồn nguyên liệu sinh học chính để thu nhận protease [110]:
- Thực vật: Từ các thực vật bậc cao như: Papain thu từ mủ đu đủ xanh, Breomelin từ thân cây dứa, Ficin tách từ dịch ép thân cây sung.
- Động vật: Thông thường protease động vật có ở tuyến tiêu hóa (niêm mạc dạ dày, niêm mạc ruột non, tuyến tụy...).
- Vi sinh vật: Các protease của vi khuẩn và nấm sợi thường được sử dụng. Một số vi sinh vật có khả năng sinh tổng hợp mạnh mẽ protease. Các enzyme này có thể ở trong tế bào (protease nội bào) hay được bài tiết vào môi trường nuôi cấy (protease ngoại bào). Một số vi khuẩn thuộc giống Bacillus, xạ khuẩn thuộc giống Streptomyces, nấm mốc thuộc giống Aspergillus, Penicillium, Rhizopus là có khả năng sinh tổng hợp enzyme protease [111].
3. Pepsin:
Là enzyme chính của đường tiêu hóa giúp tiêu hóa protein. Do tế bào chính của tuyến sinh acid và tế bào nhày của tuyến môn vị bài tiết ở dạng chưa hoạt động là pepsinnogen; sau khi pepsinogen tiếp xúc với HCl, đặc biệt khi chúng tiếp xúc với một ít pepsin được tạo ra trước đó, chúng được hoạt hóa thành pepsin. Pepsin hoạt động mạnh nhất ở pH từ 2-3 và bị bất hoạt ở pH > 5. Là một endopeptidase có tác dụng thủy phân protein thành proteose, peptone và polypeptide [110].
4. Lipase:
Lipase của dịch vị có cùng nguồn gốc với pepsinogen. Lipase tác dụng trên các lipid đã nhũ tương hóa như lipid của sữa, trứng; phân giải triglyceride thành acid béo và diglycerid. pH tối thuận của lipase dịch vị nằm trong khoảng từ 4-6. Acid béo được giải phóng ở dạ dày sẽ kích thích niêm mạc tá tràng bài tiết hormone cholecystokinin. Hormone này kích thích tụy bài tiết lipase [109],[110],[112].
Khi chức năng tụy ngoại tiết yếu, bài tiết lipase và pepsin thiếu, dẫn đến tình trạng đau bụng, đầy hơi, phân lỏng, có mùi hôi và bóng nhờn là đặc trưng của bệnh phân sống trong suy tụy. Hậu quả kèm theo là sự thiếu hụt vitamin tan trong chất béo (A, D, E và K), magie, canxi, acid béo và amin thiết yếu, cũng như gia tăng nguy cơ SDD [112].
Liều lượng enzyme khuyến cáo: 1000 đơn vị lipase mỗi kg mỗi bữa ăn cho trẻ dưới 4 tuổi và 500 IU mỗi kg mỗi bữa ăn cho trẻ từ 4 tuổi trở lên. Người ta ước tính rằng một liều 50.000 IU lipase mỗi ngày sẽ cho kết quả giảm 45% trong phân mỡ, trong khi giảm 60% đến 70% dự kiến sẽ cho bệnh nhân dùng 100.000 IU và 150.000 IU tương ứng [113],[114].
Tính an toàn của các loại enzyme tiêu hoá
Các enzyme tiêu hoá là không có hại, an toàn và không có giới hạn độc hại [202]. Các enzyme không tích tụ lại trong cơ thể. Chúng truyền tín hiệu hoạt động enzyme kéo dài bất cứ nơi nào từ 1-4 giờ và sau đó chúng được loại bỏ khỏi cơ thể hoặc các protein được phân giải thành các acid amin và các acid amin này sẽ được sử dụng cho các mục đích khác [116].
Enzyme được sử dụng tốt cho trẻ em và thậm chí cả trẻ sơ sinh. Việc điều chỉnh liều lượng enzyme dựa trên kích cỡ bữa ăn, không phải dựa vào tuổi hoặc trọng lượng cơ thể. Các enzyme có thể được thêm vào thức ăn hoặc đồ uống và ngay cả sữa bột trẻ em.
0 Nhận xét