VIÊM DA CƠ ĐỊA – ATOPIC DERMATITIS
VDCĐ là một bệnh da ngày càng gặp nhiều hơn ở trẻ em và cả người lớn, ước tính có khoảng 18 triệu người Mỹ mắc bệnh này, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em khoảng 10%. Ngày nào tôi cũng khám ít nhất là 1 bệnh này, mỗi lần khám là ra rả hướng dẫn cách điều trị, riết nó ám ảnh luôn.
VDCĐ cũng hay bị gọi là bệnh chàm (Eczema), tuy nhiên cách gọi qua lại này không đúng hoàn toàn. Chàm là từ dùng chung cho nhiều bệnh da khác nhau có cùng đặc điểm là có tình trạng viêm da, trong đó VDCĐ là loại phổ biến nhất của chàm. Bởi vậy chàm ở người lớn cũng khác với VDCĐ.
Để mô tả về bệnh VDCĐ thì có 3 từ chính: mãn tính, tái phát và ngứa.
Cái sự mãn tính, tái phát và gây ngứa này là nguồn cơn của nỗi khổ mang tên VDCĐ. VDCĐ không làm ai chết nhưng gây ảnh hưởng trầm trọng tới chất lượng sống và tâm lý, tốn kém.
Khoảng 50% trẻ em báo cáo rằng bệnh này ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống: thiếu ngủ, mệt mỏi, không tham gia được các hoạt động khác trong đời sống, có ít bạn, bị kỳ thị, trầm cảm. Năm ngoái tôi có đọc tin một cô gái Hồng Kông đâm chết cha mẹ mình vì mắc bệnh này kéo dài và làm cô trẩm cảm, oán trách cha mẹ mình.
Cha mẹ cũng không khá gì hơn, cha mẹ mà có con bị VDCĐ vừa tới nặng mất khoảng 3 giờ mỗi ngày để chăm sóc da của con, vị chi khoảng 1000 giờ mỗi năm. 1000 giờ đó gây mệt mỏi, thiếu ngủ, tốn kém, cảm giác tội lỗi, vô vọng, trẩm cảm, mất sự riêng tư của vợ chồng (do phải ngủ với con). Tỷ lệ mẹ bị trầm cảm cao gấp đôi nếu so với có con mắc bệnh hen suyễn.
VDCĐ biểu hiện bằng những đợt viêm da và hay tái phát. Ở trẻ nhỏ thì hay gặp ở da đầu, mặt, thân mình, chân tay. Trẻ lớn hơn khi bắt đầu đi học thì hay gặp ở các vùng có nếp gấp da như khuỷu tay, sau gối. Trẻ vị thành niên và người lớn thì hay gặp ở bàn tay và chân. Cho dù gặp ở đâu thì vẫn có đặc điểm chung là ngứa. Trẻ con hay gảy đàn, gây trầy xước da, nhiễm trùng làm nặng hơn và biến chứng sang các bệnh da khác.
VDCĐ kéo dài có thể gây sừng hoá làm da dầy lên sậm màu, hay ngược lại làm da mất sắc tố có màu trắng.
VDCĐ thường chỉ cần chẩn đoán bằng thăm khám, không cần xét nghiệm, xét nghiệm chỉ thường dùng cho các trường hợp khó khăn trong chẩn đoán hay muốn tìm tác nhân gây kích phát mà thôi.
TẠI SAO CON MẮC BỆNH VIÊM DA CƠ ĐỊA?
Cơ chế bệnh sinh của VDCĐ rất phức tạp và có nhiều yếu tố góp phần chứ không phải là 1 nguyên nhân duy nhất, và vẫn đang được nghiên cứu.
Những yếu tố đã được biết đến:
LÀN DA SA MẠC
Sự bất thường lớp sừng biểu bì của da (stratum corneum): biểu bì là lớp ngoài cùng của da có tác dụng ngăn cản sự mất nước qua da và phòng ngừa sự xâm nhập của các tác nhân dị ứng, kích thích da và nhiễm trùng. Filaggrin là một protein có vai trò quan trọng trong cấu trúc biểu bì. Khoảng 50% bệnh nhân VDCĐ vừa và nặng có đột biến gene làm ảnh hưởng đến filaggrin.
Thiếu chất này làm da không còn liền lạc như bình thường và không còn giữ nước được làm da khô, nứt nẻ. Làn da khô nứt nẻ này sẽ làm ngứa, ngứa thì thành nghệ sĩ đàn tranh, gây tăng thêm viêm nhiễm và nhiễm trùng. Đây là yếu tố quan trọng nhất.
Ngoài ra còn có đột biến gene khác ảnh hưởng tới các chất quan trọng trong cấu trúc da như CDSN, DSG1.
Làn da của người VDCĐ khô và nứt nẻ như mặt đất của Thung Lũng Chết (Death Valley) ở tiểu bang Nevada.
DI TRUYỀN
Cha mẹ có bệnh trong cuộc diễu hành của dị ứng (atopic march) như viêm mũi dị ứng, hen suyễn, viêm da cơ địa, dị ứng thức ăn thì con sẽ có nguy cơ cao mắc những bệnh này
DỊ ỨNG VÀ YẾU TỐ KÍCH THÍCH
Làn da thung lũng chết mời chào tất cả các tác nhân gây dị ứng, kích ứng tiếp xúc với da. Các phản ứng dị ứng thật sự là phản ứng viêm, làm kích phát VDCĐ hay làm nặng hơn và kéo dài.
Tuy nhiên, với vấn đề dị ứng thức ăn và VDCĐ có một sự hiểu lầm ở đây, khảo sát cho thấy 90% cha mẹ tin là dị ứng thức ăn là nguyên nhân chính gây VDCĐ. Đúng là tỷ lệ dị ứng thức ăn khá cao trên trẻ có VDCĐ vừa và nặng (30-40%) so với trẻ không có VDCĐ (5%) và có tới 80% trẻ VDCĐ có lượng kháng thể IgE kháng thức ăn tăng cao mà không có biểu hiện dị ứng. Trẻ có dị ứng thức ăn thường có VDCĐ sớm hơn và nặng hơn. Tuy nhiên xin nhắc lại đây không phải là quan hệ nhân quả, dị ứng thức ăn không gây ra VDCĐ, có những trẻ dị ứng thức ăn nhưng không có VDCĐ và ngược lại có VDCD nhưng không có dị ứng thức ăn. Dị ứng thức ăn là yếu tố tăng nặng, có nghĩa là khi con bị VDCĐ và kèm theo dị ứng thức ăn, dị ứng thức ăn có thể kích phát, làm kéo dài và nặng hơn tình trạng VDCĐ do phản ứng miễn dịch của dị ứng.
Sở dĩ làm rõ chuyện này vì có một số trường hợp bị hiểu sai và kiêng cử quá mức làm trẻ suy dinh dưỡng, thiếu chất. Có trẻ bị kiêng đủ thứ bỏ ăn sụt cân, vô khám tôi kêu trời.
Hiện tại, NIAID (National Institute of Allergies and Infectious Diseases) khuyến cáo nên đánh giá khả năng dị ứng thức ăn trên những trẻ có VDCĐ nặng và không đáp ứng với liệu pháp điều trị đúng và tuân thủ nghiêm ngặt, trong đó đặc biệt là sữa, trứng, đậu phộng, lúa mạch (wheat) và đậu nành, hoặc có tiền sử đáng tin cậy là có phản ứng da sau khi ăn một thức ăn nào đó.
NIAID không khuyến cáo kiêng cử các thức ăn trên trừ khi có bằng chứng dị ứng vì không cho thấy cải thiện.
Thực tế tôi hay cho thử định lượng IgE thức ăn trên những trẻ CVCĐ nặng và tránh loại nào có lượng IgE cao, hay gặp nhất là trứng.
Atopic march là cuộc diễu hành của các bệnh liên quan tới dị ứng, đầu tiên là VDCĐ, tiếp nối bởi hen suyễn, viêm mũi dị ứng. Điều trị sớm và hiệu quả VDCĐ có thể phòng ngừa và làm giảm sự phát triển các bước tiếp theo của cuộc diễu hành này.
NHIỄM TRÙNG DA
Có một giả thuyết đang được nghiên cứu là sự khiếm khuyết cấu trúc da làm thay đổi pH da, gây tăng vi trùng thường trú trên da, đặc biệt là tụ cầu vàng (Staph. aureus). Các vi trùng này tạo nên phản ứng miễn dịch trên da gây hiện tượng viêm da và kích phát VDCĐ.
Dù giả thuyết này đúng hay không tình trạng nhiễm trùng da trên bệnh nhân VDCĐ cũng rất phổ biến.
Tóm lại, VDCĐ liên quan tới làn da thung lũng chết, tác nhân dị ứng và kích ứng, nhiễm trùng da. Hiểu chuyện này rất quan trọng để hiểu việc điều trị VDCĐ đúng cách.
ĐIỀU TRỊ VIÊM DA CƠ ĐỊA – SỐNG CHUNG VỚI LŨ
VDCĐ gói gọn trong mấy chữ: da khô, mãn tính, ngứa, tái phát, nhiễm trùng, từ đó chuyện điều trị VDCĐ cũng xoay quanh mấy chữ đó mà thôi.
Điều trị VDCĐ là một cuộc chiến trường kỳ của một đội gồm bs, cha mẹ và bệnh nhân, không thể thiếu phần của ai. Trong thực tế ngoài một số ít trường hợp nặng hay trên cơ địa dị ứng, hầu hết trường hợp VDCĐ có thể được kiểm soát tốt. Tuy nhiên bs không có thời gian hay không chịu khó hướng dẫn cụ thể cho người nhà, người nhà thì không hiểu về VDCĐ hay không đủ kiên nhẫn theo sát kế hoạch điều trị.
Hai sự tình cộng lại đưa đến tình trạng các mẹ chỉ chạy đến cầu cứu bs khi có một đợt bùng phát, bs thì khám xong quăng cho cái toa thuốc corticoid bôi, bôi đâu chừng 2 tuần thì bớt. Xong rồi vài bữa sau thì bùng phát trở lại, có mẹ tự mua thuốc corticoid về bôi triền miên khói lửa, hễ ngưng là vừa đỏ vừa ngứa liền.
Mục tiêu của điều trị VDCĐ gồm:
- giữ ẩm da, giúp hồi phục làn da khô nứt nẻ
- điều trị các đợt bùng phát bằng thuốc kháng viêm bôi (corticoid)
- chống ngứa
- kiểm soát nhiễm trùng da, là yếu tố kích phát quan trọng nhất.
PHỤC HỒI LÀN DA KHÔ – CHĂM SÓC DA
Có một sự hiểu lầm thường gặp đó là hầu hết mọi người xem nhẹ chuyện chăm sóc da mà chỉ nghĩ tới những đợt bùng phát của VDCĐ. VDCĐ chủ yếu do da khô, nên giữ da không bị khô mới là điều trị gốc rễ. Khi làn da không giữ nước thì chúng ta phải luôn có gắng giữ cho chúng không bị khô, cho nên việc bôi kem giữ ẩm mỗi ngày 2-3 lần vô cùng quan trọng, mà phải bôi cả khi làn da đang đẹp như mơ chứ không phải đợi nó vừa đỏ vừa khô nứt nẻ mới lo bôi.
Chăm sóc da ở đây bao gồm giữ ẩm, chống tiếp xúc với tác nhân kích ứng hay dị ứng. Chăm sóc da tốt sẽ làm giảm tần suất và mức độ nặng của các đợt tái phát.
TẮM: NHÚNG NƯỚC VÀ BỌC LẠI
Chuyện đơn giản là tắm thôi cũng gây nhiều tranh cãi, nhưng hiện nay người ta khuyến cáo tắm mỗi ngày trong nước ấm nhẹ 15 phút để nhúng da trong nước, dùng xà phòng trung tính không có chất thơm, sau đó bôi kem giữ ẩm ngay sau khi tắm. Phương pháp này gọi là nhúng nước và bọc lại (soak-and-seal), tắm để tưới nước cho làn da khô, sau đó bôi kem dưỡng ẩm lên ngay sau khi tắm để tạo một lớp vỏ bọc nhằm giữ nước lại trong da.
Chính vì vậy phải dùng kem giữ ẩm chứa nhiều mỡ ít nước mới có tác dụng chống mất nước trên da. Tiếng Việt gọi chung là kem giữ ẩm nhưng có 3 loại kem giữ ẩm khác nhau dựa trên tỷ lệ mỡ/nước giảm dần:
- Oinment (thuốc mỡ) > Cream > Lotion.
- Oinment như Petro Jelly có 100% mỡ.
Các loại kem có chứa nhiều mỡ hơn nước như Eucerin, Aveeno, Cetaphil cho kết quả tốt, nhưng tuỳ thị trường tại chỗ và túi tiền mà chọn thứ để dùng. Thứ rẻ tiền như Petro Jelly vẫn tốt như thường, chỉ có gây cảm giác nhớp nháp hơi khó chịu và có thể gây viêm nang lông trong những ngày nóng nực.
KHÔNG dùng lotion, lotion bay hơi rất nhanh, để lại các chất bảo quản, tạo mùi trên da sẽ dễ gây viêm da tiếp xúc.
Ưu tiên sử dụng oinment hay cream, lotion chủ yếu là nước nên bốc hơi rất nhanh, không có tác dụng bao bọc giữ nước nên không sử dụng cho VDCĐ.
Không nên sử dụng xà phòng bột giặt có tính tẩy mạnh, nước hoa, quần áo khô ráp, tránh đổ nhiều mồ hôi, tránh tiếp xúc nước bọt ở trẻ nhỏ, tránh stress.
Trong một vài trường hợp hay bị nhiễm trùng có thể tắm với nước có thuốc tẩy pha loãng, ngoài ra không cần thêm gì vào nước tắm.
Ở Mỹ hiện nay đang có cái máy đeo trên da, mỗi ngày nó tự động bôi kem giữ ẩm lên da mấy lần, dùng cho những người có bệnh chàm ở một vùng cố định trên cơ thể. Đúng là dân Mỹ đã mập còn làm biếng quá đi.
ĐIỀU TRỊ KHÁNG VIÊM
Trong những đợt bùng phát thì cần phải dùng tới thuốc kháng viêm để dập tắt nhanh triệu chứng, đưa da về tình trạng ổn định.
Hiện tại thuốc có hiệu quả cao, rẻ tiền vẫn là corticoid dạng bôi.
Đôi khi corticoid loại nhẹ có thể được dùng kéo dài trong những trường hợp nặng nhằm giúp kiểm soát tốt tình trạng viêm da.
Trong những đợt bùng phát từ vừa tới nặng, corticoid bôi là cần thiết, nên được sử dụng theo nguyên tắc từ loại tác dụng nhẹ tới nặng, khi đã đạt được mục đích kháng viêm thì cũng sẽ giảm dần từ mạnh xuống nhẹ.
Mục đích của điều trị corticoid là đạt hiệu quả kháng viêm cần có trong khi giảm thiểu các tác dụng phụ.
Hầu hết các loại corticoid bôi da rất an toàn khi sử dụng ngắn ngày, 10-21 ngày tuỳ loại.
Corticoid bôi được xếp loại theo độ mạnh từ nhóm 1 như Hydrocortisone 1% cream là nhẹ nhất cho tới nhóm 7 là nhóm nặng nhất như Clobetasol 0.05% oinment. Trong mỗi thuốc lại có ointment, cream, lotion. Vì có độ bao phủ (occlusion) khác nhau nên độ mạnh của thuốc sẽ theo thứ tự bao phủ từ tốt tới kém hơn: Oinment > cream > lotion.
Trong VDCĐ, corticoid oinment được ưa chuộng vì có độ bao phủ cao nên hấp thu tốt hơn, giữ ẩm tốt hơn và ít chất bảo quản hơn cream và lotion. Ngoài ra oinment ít gây bỏng rát da như cream.
Corticoid loại nhẹ hay được sử dụng ở những vùng da mỏng, dễ hấp thu và có nguy cơ tác dụng phụ cao hơn như mặt, mí mắt, bộ phận sinh dục hay vùng da chà xát lên nhau như nách, mặt trong hai bên đùi. Những cùng da khác hay vùng da dầy có thể dùng loại mạnh hơn. Chọn corticoid loại nào tuỳ theo độ nặng, vùng da, tuổi. Trẻ em nhỏ hơn 3 tuổi nên dùng loại nhẹ cho toàn cơ thể.
Giải thích hướng dẫn cẩn thận là chìa khoá thành công trong việc điều trị VDCĐ với corticoid. Khi sử dụng thuốc corticoid, bôi một lớp mỏng nhưng không quá ít lên vùng da đang viêm, sau đó bôi một lớp kem giữ ẩm dày hơn lên dùng da không viêm. KHÔNG bôi kem giữ ẩm chồng lên vùng da đã bôi corticoid vì sẽ làm loãng corticoid vùng da bệnh và làm dính corticoid lên vùng da lành. Chú ý tránh việc chà xát vùng da bệnh sẽ làm giảm tác dụng của corticoid.
Tác dụng phụ của corticoid bôi da là có thể làm teo da, nứt da, dãn mạch da, mụn trứng cá, nhiễm trùng thứ phát. Tác dụng phụ toàn thân là ức chế tuyến thượng thận có thể gặp với loại mạnh. Corticoid nếu bôi vùng mắt có thể gây tăng nhãn áp đục thuỷ tinh thể nên vùng này hay dùng các thuốc bôi nhóm kháng calcineurine. Tuy nhiên nếu dùng corticoid đúng cách, đúng thời gian, không lạm dụng thì thường là an toàn.
KHÔNG dùng corticoid đường uống để điều trị VDCĐ, cho dù là thể nặng. Corticoid đường uống có thể làm giảm đợt bùng phát nhanh, nhưng khi ngưng sẽ tạo ra hiện tượng dội ngược (rebounce) với 1 đợt bùng phát còn nặng hơn đợt vừa qua.
Corticoid đường uống được cho là hiệu quả hơn, tuy nhiên nồng độ corticoid trên da cao hơn khi sử dụng thuốc bôi hơn là đường uống. Trong bệnh cảnh mãn tính và nguy cơ tác dụng phụ khi uống corticoid lâu ngày, thì corticoid đường uống không được khuyến cáo sử dụng.
Khi trẻ có VDCĐ và mắc một đợt hen suyễn cần phải sử dụng corticoid đường uống, thì nên điều trị VDCĐ đón đầu với corticoid bôi mạnh hơn khi ngưng corticoid đường uống để ngừa hiện tượng dội ngược
THUỐC KHÁNG VIÊM ỨC CHẾ CALCINEURIN
Các thuốc này có hiệu quả kháng viêm nhờ ức chế sự chuyển hoá cytokine thành tế bào T hoạt hoá. Các thuốc này không phải là corticoid, nên không làm teo da, nên được ưa chuộng sử dụng ở da mặt hay mí mắt, hay trong các trường hợp nặng nhằm làm giảm nhu cầu corticoid. Các thuốc này cho thấy hiệu quả làm giảm các đợt bùng phát tuy nhiên vẫn chưa được FDA chấp nhận sử dụng như một thuốc phòng ngừa.
Các thuốc thường dùng Tacrolimus (protopic) 0.03% oinment và Pimecrolimus 1% cream có thể sử dụng trên trẻ từ 2 tuổi. Tacrolimus 0.1% oinment có thể sử dụng ở trẻ trên 12 tuổi.
ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG DA
Tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) là vi trùng thường trú trên da và NIÊM MẠC MŨI quan trọng nhất đối với VDCĐ, vì nó sẽ gây bội nhiễm và những đợt bùng phát. Việc điều trị nên dựa trên ks đồ vì khả năng kháng thuốc của tụ cầu vàng.
Trên những trẻ mắc VDCĐ vừa và nặng và có bội nhiễm TCV, tắm với nước tẩy (bleach) pha loãng 2 lần một tuần, đồng thời bôi mupirocin vào mũi 2 lần/ngày trong 5 ngày, lập lại mỗi tháng trong 3 tháng cho thấy giảm đáng kể các đợt tái phát so với nhóm chứng giả dược (placebo). Mupirocin có thể dùng trên các vùng da có tổn thương.
Vì TCV có thể lây nhiễm chéo trong gia đình, nên đôi khi cần phải điều trị cả các thành viên trong gia đình với mupirocin bôi vào mũi nhằm giảm nguy cơ bội nhiễm trên trẻ bệnh.
NGỨA
Các thuốc kháng histamine hay được dùng để giảm ngứa, nhưng các nghiên cứu không cho thấy hiệu quả đáng kể. Cho nên trong khi chờ đợi thuốc mới, hiện nay điều trị ngứa vẫn còn phải dựa vào kháng viêm và chăm sóc da.
LIỆU PHÁP QUẤN ƯỚT (WET WRAP THERAPY)
Đây là phương pháp bôi hỗn hợp corticoid pha loãng với kem giữ ẩm sau khi tắm, sau đó bọc một lớp vải ướt và một lớp vải khô bên ngoài, giử từ 3-8 giờ. Phương pháp này làm giúp da giữ nước, làm da mềm, tránh ngứa, tăng hấp thu corticoid, hay được dùng cho các trường hợp vừa tới nặng. Nghiên cứu cho thấy phương pháp này có thể làm thuyên giảm các trường hợp nặng. Khi dùng phương pháp này vẫn phải áp dụng các biện pháp chăm sóc da thông thường.
Phương pháp này có thể làm mủn da do ngâm nước lâu, viêm nang lông, tăng hấp thu corticoid quá mức, nên phải được theo dõi bởi bs.
Kể lể dài dòng nãy giờ cho thấy công phu của việc điều trị VDCĐ, cho nên việc tuân thủ kế hoạch điều trị là điều rất khó khăn và mệt mỏi. Một trẻ VDCĐ cần 3 giờ mỗi ngày để tuân thủ theo kế hoạch này.
Hãy nhìn vào ví dụ của kế hoạch điều trị theo mô hình chú vịt xanh, vàng, đỏ (xem hình)
CHÚ VỊT XANH: ổn định không triệu chứng
- Tắm 15 phút, bôi kêm giữ ẩm 3 lần mỗi ngày, đặc biệt 3 phút sau khi tắm
- Bôi ks mupirocin lên da bị nứt nẻ tổn thương 2 lần/ngày cho đến khi lành
- Bôi mupirocin vào niêm mạc mũi 2 lần/ngày x5 ngày, lập lại mỗi tháng
CHÚ VỊT VÀNG: viêm da nhẹ, da đỏ, khô nứt nẻ, lở loét
- Chăm sóc da như trên
- Tắm với ½ cup nước tẩy cách ngày
- Chườm mát lên vùng da tổn thương để giảm ngứa
- Bôi hydrocortisone 2.5% oinment lên mặt, triamcinolone 0.1% oinment lên thân người, protopic 0.03% oinment lên mi mắt, nếu cần thiết.
- Dùng mupirocin như vịt xanh.
- Nếu cải thiện và da lành thì trở về vịt xanh, nếu không cải thiện thì qua vịt đỏ.
CHÚ VỊT ĐỎ: tình trạng nặng không đáp ứng điều trị
- Tắm và chăm sóc da, bôi mupirocin như vịt vàng
- Bôi desonide 0.05% oinment lên mặt, mometasone 0.1% oinment lên thân người, protopic 0.03% oinment lên mi mắt.
- Nếu cải thiện thì quay trở lại vịt vàng.
Các thuốc kháng viêm bôi da corticoid có thể khác nhau tuỳ theo vùng và theo sở thích của bs, bảo hiểm, …
Hiện nay FDA vừa chấp nhận sử dụng kháng viêm không phải corticoid (NSAID) Eucrisa trên bn trên 2 tuổi và mắc bệnh VDCĐ nhẹ tới vừa. Thuốc cho kết quả khá tốt trên một số bn tôi dùng thử nhưng giá thành còn cao, bảo hiểm thường không trả nên đa số vẫn dùng corticoid.
Tóm lại điều trị VDCĐ cần phải có kế hoạch chi tiết, được hướng dẫn cụ thể bởi bs, tuân thủ nghiêm ngặt bởi bệnh nhân hay người nhà (thường thiếu cả hai yếu tố).
Hầu hết VDCĐ có thể kiểm soát tốt nếu làm được chuyện này, may mắn là phần lớn VDCĐ sẽ hết sau 3-4 tuổi. Tuy nhiên có một số ít sẽ bị nặng kéo dài do tình trạng da khô nặng nề hay dị ứng nặng. Các trường hợp này rất khó trị liệu, cầm cự là chính.
Nếu có yếu tố dị ứng thì phải tránh tiếp xúc với dị ứng nguyên, nếu nặng có thể dùng liệu pháp miễn dịch.
VDCĐ KHÔNG PHẢI LÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH TIÊM PHÒNG, chỉ không tiêm lên vùng da đang viêm nặng hay có nhiễm trùng, da hơi khô đỏ vẫn tiêm như thường. VDCĐ là mãn tính, không tiêm thì đến khi nào mới tiêm được???
Nguồn: BS Hung Truong
Dự định viết các bài tiếp theo:
- Điều trị VDCĐ – Vai trò của corticoid
- Hội chứng người da đỏ - Sự lệ thuộc corticoid
- Phòng ngừa VDCĐ (đã viết)
- Các bệnh da hay gặp trên VDCĐ
0 Nhận xét